Đề tài Tìm biện pháp dạy tốt phân môn Học Vần lớp 1

doc 21 trang leduong 17/08/2025 40
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Tìm biện pháp dạy tốt phân môn Học Vần lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Tìm biện pháp dạy tốt phân môn Học Vần lớp 1

Đề tài Tìm biện pháp dạy tốt phân môn Học Vần lớp 1
 Biện pháp dạy tốt phân môn Học Vần lớp 1
 PHẦN MỞ ĐẦU
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
 Trong cuộc sống hàng ngày, ở mọi ngành nghề đều cần đến các hoạt động 
giao tiếp. Giao tiếp qua việc sử dụng ngôn ngữ sao cho chọn lọc để diễn đạt ý của 
mình nhằm giúp người khác biết và hiểu những thông tin đến đối tượng cần giao 
tiếp, nhằm đạt đến thành công trong công việc. Đặc biệt,trong lĩnh vực giáo dục 
cũng đòi hỏi người Giáo viên hướng dẫn, giảng dạy sao cho học sinh của mình có 
được kỹ năng giao tiếp thật tốt. Chính vì lí do đó, đối với HS ( bất cứ ở bậc học 
nào) cũng đều được rèn luyện 4 kỹ năng : nghe, nói, đọc, viết để đáp ứng nhu cầu 
giao tiếp nêu trên.
 Ngay từ lúc chưa đến trường, trẻ em đã có thể có những hiểu biết sơ bộ về 
tiếng mẹ đẻ nhưng những tri thức mà các em được tiếp thu qua môn Tiếng Việt 
nhà trường mang tính hệ thống chặt chẽ và có cơ sở khoa học, những tri thức này 
được cung cấp dần dần từ lớp dưới lên lớp trên, được đề cập đến ở tất cả các cấp 
độ của ngôn ngữ. Môn Tiếng Việt còn mang lại cho học sinh những hiểu biết về 
ngôn ngữ loài người . Học Tiếng Việt không thể dừng lại ở những hiểu biết về nó, 
mà quan trọng là để sử dụng nó ngày thành thạo, và đạt hiệu quả cao. Cho nên 
trong Tiếng Việt phối hợp cả việc cung cấp tri thức với việc rèn luyện kỹ năng sử 
dụng để giao tiếp hằng ngày.
 Do đó môn Tiếng Việt ở trường tiểu học là phải dạy theo hướng giao tiếp. 
Chính vì vậy, trẻ em cần phải được học Tiếng Việt một cách khoa học, một cách 
có hệ thống chuẩn mực để các em có thể tiếp nhận tri thức một cách chính xác và 
vận dụng vào giao tiếp .
 Để thực hiện được yêu cầu trên ở chương trình mới môn Tiếng Việt 1 yêu 
cầu giáo viên khi dạy phải đảm bảo mục tiêu hình thành và phát triển cho học sinh 
đầy đủ 4 kỹ năng. Trong đó kỹ năng nói được luyện tập kết hợp trong các kỹ năng 
đọc, nghe, viết. Điển hình là trong tiết 2 của một bài học vần hay tập đọc có 
hẳn 1 hoạt động riêng cho phần luyện nói.
1. Mục tiêu của môn Tiếng Việt
 Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, 
nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
 Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu 
biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá, văn học của người Việt 
Nam và nước ngoài.
 Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư 
duy.
 Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, 
giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã 
hội chủ nghĩa.
 1 Tập viết đúng tư thế, tập ghi dấu thanh đúng vị trí .
 Ví dụ : Các tiếng như : Lửa, biển, truyện ... 
 Không để dấu thanh như : Lưa , biên , truyên 
 - Viết chính tả : 
 + Hình thành chính tả: Tập chép,bước đầu tập nghe đọc để viết chính tả 
 + Luyện viết các vần khó, các chữ mở đầu : g, gh, ng, ngh, c, k, q 
 + Tập ghi các dấu câu ( dấu chấm, dấu chấm hỏi ) :
 Tập trình bày một bài chính tả ngắn, nếu học sinh không được học một các 
cẩn thận thì không thể biết đọc biết viết. đọc đúng mới viết đúng, và có viết đúng 
thì mới đọc đúng. 
 Có một số em do Học Vần không tốt, học chỉ thuộc lòng, dựa vào tên hình ... 
nên khi lên các lớp trên gặp nhiều khó khăn : Không đọc được chữ, đặt biệt là 
nhiều âm như : Khuyên, truyện, khuynh, quyển, huơ, thuở ... 
 Học Vần tốt sẽ giúp học sinh viết chữ đúng, viết chính tả đúng, đẹp, đọc 
diễn cảm ... biết cảm thụ bài văn, bài thơ đúng và sâu sắc hơn. Giúp các em có tri 
thức học tốt hơn các lớp trên. 
3. Thực trạng dạy và học Tiếng Việt
 Trong thực tế hiện nay việc dạy Tiếng Việt ở tiểu học nói chung, dạy phân 
môn Học Vần nói riêng ở tiểu học do quan niệm của giáo viên còn hạn chế và thiếu 
sót, thường gặp khi giảng dạy : 
 - Về mặt khách quan : 
 + Ở nông thôn, học sinh đa số thuộc gia đình nghèo, sống bằng nghề nông 
nghiệp nên chưa được học các lớp mầm, lớp chồi, hay lớp mẫu giáo. Các em chưa 
biết gì về việc học. Trẻ em còn có nhiều thiếu thốn về vật chất, không có tiền để 
học lớp hai buổi trên ngày do ảnh hưởng kinh tế gia đình,.. .Trong lớp học sinh 
chưa có đầy đủ Sách giáo khoa, vỡ bài tập. Thể lực phát triển của các em chưa 
đồng bộ. Trường lớp chưa đủ trang thiết bị để dạy và học. 
 Chính nhưng điều trên là nguyên nhân ảnh hưởng đến việc học tập của các 
em .
 - Về chủ quan : 
 Giáo viên chưa mạnh dạn tổ chức để học sinh hoạt động độc lập dưới hình 
thức học nhóm, chưa sử dụng vỡ bài tập liên quan đến bài học theo trình tự 
lôgích.Chính vì thế, để phát huy tính tích cực chủ động của học sinh và nâng cao 
chất lượng trong giờ dạy phân môn Học Vần, em đã chọn đề tài : “Tìm biện pháp 
dạy tốt phân môn Học Vần lớp 1” làm đề tài nghiên cứu của mình
II/ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 
 Mục đích của đề tài " Tìm biện pháp dạy tốt phân môn Học Vần lớp 1 " 
chính là rèn cho học sinh 4 kỹ năng nói trên. Nhằm giúp học sinh sử dụng có hiệu 
quả trong suy nghĩ và trong giao tiếp .
 Mục đích nghiên cứu là nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học. Đề tài : "Tìm 
biện pháp dạy tốt phân môn Học Vần lớp 1" là một quá trình dạy - học có hệ 
thống Logic và có khoa học. Giáo viên đóng vai trò là người hoạt động còn học 
 3 trẻ đã chuyển sang một loại hoạt động mới đó là hoạt động học tập. Sự chuyển đổi 
hoạt động chủ đạo này tác động lớn đến tâm sinh lý của trẻ .
 Ở thời kỳ này trong giờ học tâm lý của các em chóng chán, sinh lý chóng 
mệt mỏi, vì vậy giáo viên cần nắm chắc đặc điểm này để tích cực hoá hoạt động 
của học sinh giúp các em thực hiện tốt hoạt động học tập của mình.
 b./ Sự hình thành hoạt động có ý thức ở trẻ 6 - 7 tuổi 
 Tâm sinh lý đã có sự phát triển như cảm giác, trí nhớ, tri giác, tư duy ...
 Đã tạo điều kiện để các em có thể thực hiện một hoạt động mới, đó là hoạt 
động học tập. Học là một hoạt động mang tính kế hoạch, có mục đích, có ý thức .
 Ở giai đoạn đầu lớp 1 ( Học âm, vần, chữ ) những hoạt động có ý thức này 
còn mới mẽ, chẳng hạn đến lớp các em phải làm theo 5 điều Bác Hồ dạy; thực hiện 
tốt những yêu cầu của giáo viên, nội qui của nhà trường, lớp đề ra ; phải thuộc bài, 
ngồi ngay ngắn, luôn phải kiểm tra đọc, viết hàng ngày .
 Trong nhận thức của các em giáo viên lớp 1 cũng khác với cô giáo Mẫu giáo; 
giáo viên có chỗ ngồi riêng, có cách nói riêng, có sự đánh giá cho điểm..
 Chính những điều đó làm cho một số em trong giờ Học Vần thường hay rụt 
rè, không dám đọc to, đọc lại cả giọng, không dám giơ tay ... làm ảnh hưởng đến 
hiệu quả giờ học vần. Vì vậy giáo viên cần tạo ra mục đích, động cơ học tập nhẹ 
nhàng, sinh động, tiếp xúc gần gũi với các em, tổ chức những trò chơi trong tiết 
học để xua đi những mệt mõi, giúp các em vui tươi, bạo dạn, tự tin để gây hứng 
thú trong học tập đạt kết quả tốt hơn .
 c/ Đặc điểm của hoạt động tư duy 
 Trên cơ sở ý thức đã hình thành khả năng tư duy bằng tín hiệu của trẻ cũng 
phát triển, chính khả năng tư duy bằng tính hiệu là cơ sở để các em lĩnh hội chữ 
viết là những tín hiệu thay thế ngữ âm ở độ tuổi 6 - 7 khả năng phân tích tổng hợp 
ở trẻ khá hoàn chỉnh từ đó cho phép các em có khả năng tập tách từ thành tiếng, 
thành âm ( vần ) và chữ rồi biết tổng hợp âm ( vần ) vào tiếng, vào từ ...
 Như vậy ở lứa tuổi lớp 1 tư duy phân tích tổng hợp tuy còn mang tính sơ 
đẳng cả nội dung hình thức nhưng đã có ở mức độ cao thấp khác nhau .
 d/ Năng lực vận động 
 Ở độ tuổi này năng lực vận động cũng đạt được những bước phát triển đáng 
kể. Các em có thể chủ động điều khiển các hoạt động của cơ thể như : Mắt nhìn, 
tay viết, tai nghe, các hoạt động của cánh tay, ngón tay, bàn tay, trong khi viết các 
em đã có những định hướng trong không gian .
 Biết phân biệt bên trái, bên phải, bên trên, bên dưới và các nét chữ. Khi viết 
các em đã nắm được điểm đặt bút bắt đầu từ đâu, điểm kết thúc như thế nào, và sự 
phối hợp nhịp nhàng của mắt, đầu, cánh tay, cổ tay, ngón tay, biết điều chỉnh tư thế 
ngồi viết sao cho đúng .
 Giữa tiết học giao viên cho học sinh thư giãn, có thể cho các em ca, múa hát 
tập thể, hay thể dục .
 Cuối tiết học để khắc sâu kiến thức trong giờ Học Vần giáo viên cho học 
sinh chơi vài trò chơi dưới nhiều hình thức như : tìm nhanh tiếng, từ trong thời 
gian nhất định. Hay tìm đọc các câu thơ có âm ( vần ) tiếng vừa học hoặc dùng bộ 
chữ cái để cho học sinh thi nhau ghép chữ ...
 5 ( Bầm ơi - Tố Hữu )
 Ranh giới âm tiết còn là yếu tố cấu tạo từ ghép. Cấu trúc âm tiết chặt chẽ, vị 
của các bộ phận cấu thành âm tiết cố định .
 Dạy cho học sinh biết đọc, biết viết là xuất phát từ đơn vị tiếng, tiếng tức là 
âm tiết có nghĩa. Khi dạy Học Vần ta dạy âm ghép với vần tạo thành những tiếng 
có nghĩa .
 * Ví dụ : a + n : đánh vần : ( a - nờ - an ) 
 S + an + \ : ghép phụ âm đầu với vần và thanh điệu .
 Đánh vần : ( Sờ - an - san - huyền - sàn )
 Dạy theo quan điểm giao tiếp. Dạy đơn vị bé nằm trong lòng đơn vị lớn. Dạy 
âm, vần trong tiếng, tiếng ở trong từ, từ ở trong câu .
 * Ví dụ : ươm (vần)
 bướm (tiếng)
 đàn bướm (từ)
 ... trên trời đàn bướm bay lượn từng đàn .
 Đây là điều kiện thuận lợi cho người dạy, người học trong quá trình học vần. 
Về cấu tạo âm tiết Tiếng Việt là một tổ hợp ... âm thanh có tổ chức chặt chẽ. Các 
yếu tố cấu tạo âm tiết kết hợp với nhau theo từng mức độ lỏng, chặt khác nhau .
 Phụ âm đầu vần và thanh kết hợp lỏng, còn các yếu tố của vần kết hợp chặt 
chẽ như âm đệm, âm chính âm cuối kết hợp với nhau khá chặt chẽ để tạo thành 
vần .
 * Ví dụ : loan
 Vần
 Phụ âm đầu âm đệm âm chính âm cuối
 l o a n
 âm tiết có thể không có phụ âm đầu nhưng không thể thiếu vần .
 * Ví dụ : oành oạch .
 Và cũng từ vần mà giáo viên giúp các em mở rộng vốn từ nhằm phát triển 
tiếng mẹ đẻ của học sinh. Vì vậy vần có vai trò rất quan trọng trong Tiếng Việt. Tổ 
chức tập viết trong khi Học Vần có tác dụng củng cố hình ảnh về chữ viết mà các 
em vừa nắm được qua học vần, dạy đánh vần phải gắn liền với tập viết .
 * Ví dụ : bài 57
 Ang Anh
 Bàng Chanh
 Cây bàng Cành chanh
 Kết hợp dạy cho học sinh viết 
 Ang, anh, cây bàng, cành chanh
 b) Quan điểm dạy học 
 Sắp xếp nội dung dạy từ dễ đến khó 
 Bắt đầu từ e và v các tác giả đã chọn nhóm chữ cái có nét thắt làm nhóm chữ 
bắt đầu cuốn sách . 
 7 Trong giờ Học Vần giáo viên dạy học sinh đọc âm tức là dạy cho chữ viết là 
ký hiệu dùng để ghi lại ngôn ngữ âm thanh, cho nên khi dạy vần không tách tập 
đọc với tập viết, tổ chức học viết trong khi Học Vần có tác dụng củng cố hình ảnh 
chữ viết mà các em vừa được học trong tiết Học Vần .
 Mặt khác việc đọc và viết chữ là hai mặt của một quá trình thống nhất học 
sinh đọc tốt thì viết tốt và ngược lại có viết được thì đọc được .
 Việc dạy đọc phải gắn liền với dạy viết đó là khâu không thể thiếu được 
trong các tiết Học Vần .
 Kĩ nămg đọc là nền tảng cơ bản cho các lớp trên nên việc rèn đọc là rất quan 
trọng, ở lớp 1 để phát triển kỹ năng đọc cho học phải qua 3 giai đoạn, do đó ở 3 
giai đoạn này giáo viên cần phải thực hiện các yêu cầu sau để phát triển kỹ năng 
đọc cho học sinh:
 * Giai đoạn học âm: cho học sinh cả lớp học âm cho thật vững. Các em 
nắm vững cấu tạo của từng âm, không thuộc lòng. Cứ học âm mới thì ôn kiểm tra 
củng cố lại âm cũ, đảo lộn thứ tự các âm một con chữ, hai con chữ và ba con chữ .
 + Cho các em tự nhớ lại các âm đã họcviết lên bảng con để các em nhớ rõ 
từng âm không bao giờ quên và lầm lẫn .
 + Ở giai đoạn học âm ta phải cố gắng dứt điểm cho tất cả các em đều phải 
học cho thành thạo .
 * Sang giai đoạn học vần :
 + Dạy đúng phương pháp và kèm theo ôn vần mỗi ngày. Trước khi học vần 
mới thì ôn lại các vần cũ để củng cố và có điều kiện để học sinh nhớ lại lại mặt 
chữ.
 + Cho các em tự nhớ lại, viết lại các nhóm vần đã học trên bảng con .
 +Luyện học sinh có thói quen truy bài đầu giờ: Học sinh phải trả bài cho tổ 
trưởng. Mỗi ngày ta phải kiểm tra lại trình độ đọc của các em này. Các em không 
thuộc vần nầo ghi vào sổ theo dõi “Tập đọc” bảo các em về học lại, ngày sau lúc 
truy bài đầu giờ ta gọi các em đó đọc lại, cứ thế ta phụ đạo cho các em hết giai 
đoạn học vần .
 * Giai đoạn tập đọc : 
 + Cần luyện cho các em đọc lớn tiếng rõ ràng , phát âm đúng và động viên 
các em hăng hái phát biểu ý kiến giúp cho lớp học được sinh động. Ở lớp 1, nếu ta 
không luyện cho các em có thói quen này thì lên lớp trên ta luyện cho các em nói 
lớn tiếng rất là khó. Những em này không phải là không nói lớn tiếng được đâu. 
Trong lúc sinh hoạt vui chơi cùng bạn bè, thì các em vẫn cười đùa lớn tiếng với 
nhau thế mà đến tiết học thì các em không chịu đưa tay phát biểu mà nếu có gọi em 
thì em trả lời lí nhí, rụt rè. Với những em này ta hỏi những câu hơi dễ và có ý nghĩa 
vui để các em vừa hiểu, vừa thích nên trả lời được lớn tiếng hơn các loại câu khác. 
Ta cứ luyện dần như thế, thì tạo cho các em nói lớn tiếng, rõ ràng .
 +Ở mỗi bài tập đọc, ta nên chú ý luyện cho học sinh đọc được những tiếng 
có vần khó, đến phần củng cố nên cho các em đánh vần và đọc trơn lại tiếng ấy. 
Đến tiết tập chép ta cũng cho các em viết lại trên bảng con những tiếng mà các em 
hay quên trong bài. Cứ ngày nào có bài tập đọc mới thì ta nên cho các em ôn lại 
lúc truy bài lần lượt hết nhóm vần ôn. Cứ tiếng nào các em đọc chưa được thì ta 
 9

File đính kèm:

  • docde_tai_tim_bien_phap_day_tot_phan_mon_hoc_van_lop_1.doc