Tham luận Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt trong trường Tiểu học của huyện Phùng Hiệp, tỉnh Hậu Giang

doc 16 trang leduong 17/08/2025 40
Bạn đang xem tài liệu "Tham luận Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt trong trường Tiểu học của huyện Phùng Hiệp, tỉnh Hậu Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tham luận Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt trong trường Tiểu học của huyện Phùng Hiệp, tỉnh Hậu Giang

Tham luận Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt trong trường Tiểu học của huyện Phùng Hiệp, tỉnh Hậu Giang
 UNND HUYỆN PHỤNG HIỆP CỘNG HÒA XÃ HỘI CHŨ NGHĨA VIỆT NAM
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Độc lập – tự do – Hạnh phúc
 BÀI THAM LUẬN :
 Thực trang và giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt 
 trong trường tiểu học của huyện Phụng Hiệp , tỉnh Hậu Giang
I/. Xuất phát từ yêu cầu của việc dạy và học Tiếng Việt 
 Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tư 
tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn đã 
được ghi lại bằng chữ viết . Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu 
nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường, hạnh 
phúc với đúng nghĩa của từ này trong trong xã hội hiện đại . Biết đọc, con người đã 
nhân khả năng tiếp nhận lên gấp nhiều lần, từ đây con người biết tìm hiểu và đánh 
giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên – xã hội, tư duy . Biết đọc con 
người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp 
được với thế giới bên trong của người khác. Đặc biệt, khi đọc các tác phẩm văn 
chương, con người không chỉ được thức tĩnh về nhận thức mà còn rung động tình 
cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh 
sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn . Không biết đọc, con người sẽ không 
có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành 
một nhân cách toàn diện. 
 Do đó việc hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dung tiếng 
Việt (đọc, viết, nghe, nói) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động 
của lứa tuổi, hình thành nhân cách con người mới là việc không thể thiếu được ở 
trường tiểu học.
 Môn Tiếng Việt bao gồm các phân môn : Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và 
câu, Chính tả, Tập làm văn, tập viết có nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học 
sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp 
trong học tập và trong cuộc sống.
 Việc thực hiện chương trình và sách giáo khoa môn Tiếng Việt phải thực 
hiện một cách hợp lý, phù hợp với đặc điểm học sinh từng vùng miền khác nhau, 
 1 cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy dạy học tiếng Việt có một ý nghĩa to 
lớn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển .
III/.Thực trạng việc dạy và học môn Tiếng Việt hiện nay ở trường tiểu học 
thuộc huyện Phụng Hiệp 
1- Thực trạng việc dạy và học môn tiếng việt ở các trường Tiểu học trong 
những năm qua
 2.1. Thực trạng việc dạy và học đối với Phân môn Tập đọc và phân môn kể 
chuyện
 * Về phía giáo viên:
 + Giáo viên chưa khéo léo tổ chức để học sinh đều làm việc với sách giáo 
khoa, phương tiện học tập chủ yếu của học sinh. 
 + Có tổ chức cho học sinh làm việc với sách giáo khoa trong suốt giờ học, 
mới kích thích được tính tích cực và hứng thú của các em, mới làm cho giờ học 
không trở nên tẻ nhạt và buồn chán đối với trẻ. Quan sát nhiều giờ tập đọc ở trường 
tiểu học, chúng tôi thấy rằng: đa phần giáo viên không chú ý đến điều đó. Thường 
bắt gặp trong các giờ tập đọc, học sinh thụ động ngồi nghe, nghe nhiều mệt mỏi 
dẫn đến vi phạm kỉ luật trong học tập, trong khi đó sách giáo khoa lại bị bỏ sang 
một bên không được dùng đến. Còn khi được gọi đọc, nhiều em khác không chú ý 
theo dõi bạn đọc, thậm chí còn làm mất trật tự, vì thế lúc cần phải đọc tiếp hoặc 
nhận xét bạn đọc, các em rất lúng túng và thường không đáp ứng được yêu cầu của 
giáo viên.
 + Việc giảng từ khó, luyện đọc từ khó còn tách ra khỏi quá trình luyện tập 
đọc của học sinh: ở bất kì bài tập nào cũng có một số từ khó, khó về mặt ngữ nghĩa 
hoặc khó về cách đọc; nhiệm vụ của giáo viên là giải giúp học sinh hiểu rõ và đúng 
các từ này. Việc giảng từ khó, luyện đọc từ khó cần được đặt trong quá trình luyện 
tập đọc của học sinh. Khi được đặt trong văn cảnh, trong môi trường ngôn ngữ, học 
sinh dễ hiểu, dễ đọc các từ đó hơn. Thế nhưng nhiều giáo viên đã tách việc giảng 
các từ khó thành một mục riêng và tiến hành mục này sau khi học sinh đã học xong 
bài. Thực tế cho thấy nếu làm như vậy, học sinh khó có thể hiểu đầy đủ ý nghĩa của 
từ đó vào việc đặt câu, ngay cả lúc cần đọc bài lần cuối đến các từ khó này, học 
sinh cũng ít khi đọc cho đúng, cho trôi chảy mạch lạc.
 3 đọc – đọc thành tiếng. Từ đây, dễ dẫn đến một sai lầm trên thực tế dạy học là giáo 
viên tiểu học đã không chú ý đúng mức đến luyện đọc thầm cho học sinh. 
 - Giáo viên phân phối thời gian không hợp lí dẫn đến tình trạng dạy quá sâu 
(hoặc dông dài), không cần thiết, chưa đi vào nội dung của bài.
 - Phần luyện đọc đa số các em phát âm chưa chuẩn (phát âm theo phương 
ngữ). Giáo viên chỉ chú ý luyện đọc cho học sinh các từ khó mà chưa quan tâm đến 
việc luyện đọc câu và nhất là những câu văn dài không được tách đoạn nhỏ bằng 
dấu phẩy. Muốn đọc nâng cao (diễn cảm) được tốt thì đòi hỏi người giáo viên phải 
có một giọng đọc mẫu thu hút - nếu không thì khó rèn luyện ở học sinh.
 - Quá sa vào giảng văn - lúng túng trong xử lí phần tìm hiểu bài. Không ai 
phủ nhận việc bồi dưỡng văn học qua phân môn tập đọc. Nhưng trong một tiết nếu 
giáo viên quá sa vào “giảng văn” thì sẽ không còn thời gian để học sinh luyện đọc - 
nhiệm vụ chính của phân môn. Đây là điểm vướng mắc khá phổ biến mà nhiều giáo 
viên cần tìm cách tháo gỡ.
 - Giáo viên chú ý đến đối tượng học sinh yếu đây cũng là những lỗi thường 
gặp ở tiết tập đọc. Trong giờ dạy, nhất là những giờ dạy có người dự, nhiều giáo 
viên cố tình bỏ qua đối tượng này. Nguyên nhân là do các em đọc chậm, trả lời 
không trôi chảy làm mất thời gian tiết dạy. Tuy vậy lỗi này là do người dạy đã vô 
tình tạo ra áp lực và cũng vô tình làm hỏng tiết dạy. Và dự một giờ thấy học sinh 
trả lời trôi chảy, bài giảng tiến triển thuận lợi, người dự đánh giá cao. Ngược lại 
trong tiết dạy, giáo viên chú ý tập đọc, tập trả lời cho học sinh yếu, người dạy 
thường phê bình, đánh giá thấp. Mặc dù lựa chọn phương pháp phù hợp với đối 
tượng là nguyên tắc dạy học mà ai cũng biết.
 Có thể phác qua bức tranh dạy đọc hiểu hiện nay ở trường tiểu học: Giáo 
viên hỏi, học sinh trả lời. Giáo viên đánh giá câu trả lời của học sinh. Thực tế là 
giáo viên chỉ nêu câu hỏi và chờ đợi những câu trả lời đúng mà không biết, không 
quan tâm đến quá trình đọc đã diễn ra như thế nào, học sinh làm gì, cần làm gì để 
có được câu trả lời. Giáo viên chỉ quan tâm đến kết quả – các nội dung, kiến thức 
bài đọc đem lại – mà không quan tâm đến phương pháp để đạt được kết quả này.
 *Về phía học sinh:
 5 2.3. Thực trạng việc dạy và học đối với phân môn Chính tả và tập viết
 * Về phía giáo viên:
 -Đa số giáo viên khi đọc cho học sinh viết , ít chú ý đến tốc độ viết của học 
sinh, nên thường hay đọc những cụm từ quá nhiều tiếng nên học sinh không thể 
nhớ hết nên viết sai nhiều lỗi chính tả, hoặc sau khi viết thường không cho học sinh 
tự chữa lỗi mà giáo viên thu bài chấm, nên học sinh chưa khắc sâu và khắc phục lỗi 
viết sai của học sinh.
 -Đa số giáo viên xe nhẹ phân môn Chính tả, giáo viên thường đi sâu việc dạy 
chữ nghĩa, tính toán....mà quên đi rằng phân môn chính tả là một môn học rất quan 
trọng, nó trang bị cho học sinh một công cụ học tập và giao tiếp (ghi chép, viết, đọc 
hiểu các bài , trình bày bài giải, thể hiện kỹ năng viết của mình, ....).
 -Do không chú trọng đến phần nghe viết nên phần luyện tập sau khi viết bài 
chính tả, giáo viên thường cho học sinh về nhà làm.
 -Đối với môn tập viết lớp 1, 2, 3 giáo viên thường xem đây là môn phụ nên 
việc rèn chữ viết không được chú trọng, nên chữ việt hiện nay của học sinh đa phần 
viết chữ xấu, không đúng qui cách.
 * Về phía học sinh:
 -Do học sinh khi nghe đọc chưa chính xác, nên viết sai nhiều (ví dụ : Tròn 
chòn hoặc và già hay dà,....).
 -Viết sai phụ â đầu, vần, â cuối, dấu thanh, hoặc viết hoa tùy tiện, không 
phân biệt được mẫu chữ thường và mẫu chữ hoa, có bài từ đầu đến cuối không có 
dấu câu nào, không có chỗ xuống dòng, ...
2- Kết luận về thực trang dạy và học Tiếng Việt 
 3.1-Mặt tích cực 
 *Về phía giáo viên :
 - Giáo viên hầu hết đã được chuẩn hoá, được tập huấn chương trình thay 
sách một cách chu đáo nên nắm bắt được mục tiêu, nội dung, chương trình sách 
giáo khoa Tiếng Việt mới. 
 7 - Chương trình Tiếng Việt cấp tiểu học mới được soạn thảo hiện đại, tinh 
giản, thiết thực và có cập nhật những thành tựu của khoa học – kinh tế - xã hội phù 
hợp với trình độ phát triển chung của chương trình giáo dục phổ thông các nước 
trong khu vực. Đồng thời phù hợp với trình độ chung của phần lớn học sinh, tạo cơ 
hội và điều kiện học tập cho tất cả học sinh, phát triển năng lực cho cá thể như các 
kỹ năng cơ bản : Nghe, nói, đọc, viết; để học tập và giao tiếp trong học tập và trong 
cuộc sống; có chú ý đến giáo dục thẩm mỹ và rèn luyện đạo đức.
 *Về phía học sinh :
 Kiến thức của học sinh sau những năm thay sách được nâng lên rõ rệt, kiến 
thức tiếp thu được đánh giá cao hơn trước, học sinh nắm bài học một cách chắc 
chắn vì các em có điều kiện tự thực hành thí nghiệm, tự tìm ra tri thức mới. Sau 
từng năm thay sách học sinh nắm vững các kỹ năng cơ bản như nghe, nói , đọc, 
viết, ..v.v.. , các em mạnh dạn tự tin hơn trong học tập, trong giao tiếp, tham gia 
phát biểu ý kiến xây dựng bài, không còn nhút nhát như trước.
 Học sinh được tiếp xúc với môi trường giáo dục nhiều hơn, nên quá trình 
hình thành nhân cách của học sinh trong sáng hơn, chuẩn mực hơn, hạn chế được 
sự tác động tiêu cực của mặt trái xã hội. chất lượng học tập của học sinh từng bước 
được nâng lên.
 Do có nhiều thời gian luyện tập, thực hành nên đã phát huy tính tích cực chủ 
động sáng tạo của học sinh.
 3.2-Về mặt hạn chế 
 - Số lớp học 2 buổi/ngày còn ít, các giáo viên dạy các lớp 1 buổi gặp nhiều 
khó khăn khi thực hiện chương trình, kết quả học tập chưa cao vì học sinh thiếu 
thời gian thực hành, luyện tập.
 - Giáo viên còn nhiều lúng túng khi dạy môn Tiếng Việt, nhất phần đọc hiểu 
giáo viên thường tập tung nhiều nên thường không đảm bảo thời lượng quy định 1 
tiết (trễ 5- 10 phút).
 - Cơ sở vật chất còn thiếu các phòng chức năng, phòng học chật hẹp, phương 
tiện bàn ghế chưa đáp ứng yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học.
 *Về Phía sách giáo khoa :
 9 - Phần luyện đọc đa số các em phát âm chưa chuẩn (phát âm theo phương ngữ). 
Giáo viên chỉ chú ý luyện đọc cho học sinh các từ khó mà chưa quan tâm đến việc 
luyện đọc câu và nhất là những câu văn dài không được tách đoạn nhỏ bằng dấu 
phẩy. Muốn đọc nâng cao (diễn cảm) được tốt thì đòi hỏi người giáo viên phải có 
một giọng đọc mẫu thu hút - nếu không thì khó rèn luyện ở học sinh.
 - Quá sa vào giảng văn - lúng túng trong xử lí phần tìm hiểu bài. Không 
ai phủ nhận việc bồi dưỡng văn học qua phân môn tập đọc. Nhưng trong một tiết 
nếu giáo viên quá sa vào “giảng văn” thì sẽ không còn thời gian để học sinh luyện 
đọc - nhiệm vụ chính của phân môn. Đây là điểm vướng mắc khá phổ biến mà 
nhiều giáo viên cần tìm cách tháo gỡ.
 - Giáo viên ý chú ý đến đối tượng học sinh yếu dây cũng là những lỗi 
thường gặp ở tiết tập đọc. Trong giờ dạy, nhất là những giờ dạy có người dự, nhiều 
giáo viên cố tình bỏ qua đối tượng này. Nguyên nhân là do các em đọc chậm, trả 
lời không trôi chảy làm mất thời gian tiết dạy. Tuy vậy lỗi này là do người dạy đã 
vô tình tạo ra áp lực và cũng vô tình làm hỏng tiết dạy. Và dự một giờ thấy học sinh 
trả lời trôi chảy, bài giảng tiến triển thuận lợi, người dự đánh gia cao. Ngược lại 
trong tiết dạy, giáo viên chú ý tập đọc, tập trả lời cho học sinh yếu, người dạy 
thường phê bình, đánh giá thấp. Mặc dù lựa chọn phương pháp phù hợp với đối 
tượng là nguyên tắc dạy học mà ai cũng biết.
 Học sinh thường thụ động trong giờ tập đọc mà chủ yếu nghe giáo viên đọc 
là chín, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh.
 - Một vài giáo viên chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp giảng dạy, chưa 
chú ý cao đến việc phát huy vai trò chủ động , tích cực, sáng tạo của học sinh trong 
học tập; tổ chức các hoạt động trong tiết dạy đôi lúc chưa hợp lý.
 - Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy thông qua bài giảng 
điện tử còn nhiều khó khăn do nhiều giáo viên mới học tin học, mới làm quen với 
trang thiết bị dạy học hiện đại. Khả năng ứng dụng vào giảng dạy còn hạn chế nên 
việc giảng dạy với bài giảng điện tử hiệu quả chưa cao hoặc lạm dụng kỹ thuật này 
trong các hoạt động không cần thiết .
 11

File đính kèm:

  • doctham_luan_thuc_trang_va_giai_phap_nang_cao_chat_luong_giang.doc